THÔNG TIN T.HÌNH KT-XH
    Bản in     Gởi bài viết  
[THÔNG CÁO BÁO CHÍ] Tình hình kinh tế - xã hội năm 2021 tỉnh Quảng Bình 

          Tỉnh Quảng Bình bước vào thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 trong bối cảnh kinh tế thế giới dần phục hồi, các quốc gia đẩy mạnh tiêm vắc xin phòng dịch COVID-19 và đã đạt được kết quả ban đầu, các nước phát triển dần mở cửa trở lại. Các nền kinh tế lớn trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU dự báo đạt mức tăng trưởng khá nhờ nỗ lực tiêm vắc xin và ban hành những gói cứu trợ nền kinh tế. Thương mại toàn cầu tiếp tục phục hồi, giá cả hàng hóa thế giới có xu hướng tăng, lạm phát, rủi ro tài chính gia tăng ở một số nền kinh tế lớn, ảnh hưởng đến đầu tư, sản xuất và xuất, nhập khẩu. Ở trong nước, tiếp đà những kết quả quan trọng, ấn tượng đạt được của năm 2020, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, thời tiết tương đối thuận lợi, sản xuất kinh doanh những tháng đầu năm đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, làn sóng dịch COVID-19 lần thứ tư bùng phát trở lại từ cuối tháng 4/2021 tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước đã đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.

          Tại Quảng Bình, thời tiết những tháng đầu năm nay khá thuận lợi; dịch COVID-19 được kiểm soát, các ngành kinh tế trên đà phục hồi và phát triển tốt. Tuy nhiên, cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: Hậu quả của thiên tai, lũ lụt năm 2020 còn nặng nề; dịch COVID-19 trong nước và trên thế giới diễn biến phức tạp làm cho chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu thụ bị thu hẹp; dịch bệnh trong chăn nuôi xảy ra nhiều nơi. Trên địa bàn tỉnh, từ cuối tháng 8/2021, tình hình dịch bắt đầu diễn biến phức tạp với những ca nhiễm biến thể Delta lây lan nhanh trong cộng đồng, nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch nên ảnh hưởng rất nặng nề đến hầu hết các ngành kinh tế và đời sống Nhân dân,… Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, toàn tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt, phù hợp với tình hình, diễn biến dịch trên địa bàn và bước đầu chuyển hướng sang trạng thái thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 theo Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và hướng dẫn về chuyên môn y tế của Bộ Y tế. Sau thời gian thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP của Chính phủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh được mở cửa hoạt động trở lại,... Do đó, trong những tháng cuối năm 2021, kinh tế của tỉnh có khởi sắc hơn.

          Do những tác động của dịch bệnh nên nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2021 đạt thấp so với năm trước và so với kế hoạch năm. Kết quả thực hiện một số lĩnh vực kinh tế - xã hội năm 2021 như sau:

          Một số chỉ tiêu chủ yếu ước tính thực hiện năm 2021:

          1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) đạt 4,83% (Nghị quyết HĐND tăng 6,5 - 7%); trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,33%, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 6,99% (trong đó: công nghiệp tăng 6,96%, xây dựng tăng 7,02%), khu vực dịch vụ tăng 4,18%;

          2. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 3,41% (Nghị quyết HĐND tăng 4,0 - 4,5%);

          3. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng 6,83%; trong đó: công nghiệp tăng 6,49% (Nghị quyết HĐND tăng 8,5 - 9%), xây dựng tăng 7,21%;

          4. Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 4,11% (Nghị quyết HĐND tăng 6,5 - 7%);

          5. Cơ cấu GRDP: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,41%;  khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,05% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); khu vực dịch vụ chiếm 49,54% (Nghị quyết HĐND: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 18,8%; công nghiệp - xây dựng chiếm 28,8%; dịch vụ chiếm 52,4%);

          6. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 6.496,4 tỷ đồng (Nghị quyết HĐND 5.428 tỷ đồng);

          7. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 23.610 tỷ đồng (Nghị quyết HĐND 24.500 tỷ đồng);

          8. GRDP bình quân đầu người đạt 49,3 triệu đồng (Nghị quyết HĐND 51,2 triệu đồng);

          9. Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 68,75% (Nghị quyết HĐND 68%);

          10. Tạo việc làm cho 15.500 lao động (Nghị quyết HĐND 18.000 lao động);

          11. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2021 là 3,3%, giảm 0,6% so với năm 2020 (Nghị quyết HĐND giảm 0,6%);

          12. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia năm học 2020 - 2021 đạt 45,0% (Nghị quyết HĐND đạt 64,88%);

          13 Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế 98,7% (Nghị quyết HĐND trên 90%) (theo chuẩn mới);

          14. Số giường bệnh bình quân trên 1 vạn dân đạt 35 giường (Nghị quyết HĐND 35 giường);

          15. Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 90,0% (Nghị quyết HĐND trên 90,0%);

          16. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 66,4% (Nghị quyết HĐND 66%); trong đó lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27,1% (Nghị quyết HĐND 26,7%);

          17. Tỷ lệ dân số thành thị được sử dụng nước sạch đạt 97,2% (Nghị quyết HĐND 97,2%);

          18. Tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh đạt 97% (Nghị quyết HĐND 97%);

          19. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 68% (Nghị quyết HĐND 68%);

          20. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý đạt 78,3% (Nghị quyết HĐND 78%); Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý đạt 100% (Nghị quyết HĐND 100%).

          1. Tăng trưởng kinh tế

          Ước tính tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2021 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 25.677,3 tỷ đồng, tăng 4,83% so với năm 2020. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,33%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,99% (trong đó: công nghiệp tăng 6,96%; xây dựng tăng 7,02%); khu vực dịch vụ tăng 4,18%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 6,62%.

          Quy mô GRDP năm 2021 (theo giá hiện hành) đạt 44.775,4 tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 49,3 triệu đồng.

          Cơ cấu GRDP: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,41%, giảm 0,25 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,05% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm), tăng 0,90 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 49,54%, giảm 0,69 điểm phần trăm so với năm 2020.

          Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, dịch bệnh trên đàn gia súc, hậu quả của lũ lụt cuối năm 2020 nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cả 3 khu vực của nền kinh tế đều không đạt kế hoạch đề ra.

          Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản: Vụ Đông Xuân và vụ Hè Thu được mùa, nhất là vụ Đông Xuân, sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay. Trong khi đó, sản xuất chăn nuôi gặp khó khăn do dịch tả lợn châu Phi, dịch bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò và ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên có những thời điểm một số sản phẩm chăn nuôi tiêu thụ khó khăn. Sản xuất thuỷ sản, do dịch bệnh nên thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, nhiều sản phẩm thủy sản không xuất khẩu được, giá giảm sâu, ngư dân hạn chế ra khơi khai thác, sản lượng tăng thấp. Do đó, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản không đạt kế hoạch đề ra.

          Khu vực công nghiệp - xây dựng: Sản xuất công nghiệp năm 2021 trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch, nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội; giá nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, chi phí vận tải, kho bãi tăng. Nét nổi bật trong sản xuất công nghiệp là trong thời gian qua có một số dự án mới đi vào hoạt động như: Sản xuất điện mặt trời, sản xuất điện gió, sản xuất gỗ ván ép, chế biến dầu lạc,… đã đóng góp lớn cho tăng trưởng của ngành công nghiệp. Tuy nhiên tốc độ tăng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp năm 2021 còn thấp, không đạt kế hoạch đề ra.

          Hoạt động xây dựng, bên cạnh khó khăn do ảnh hưởng của dịch COVID-19, còn phải đối mặt với giá vật liệu tăng cao, nhất là giá sắt, thép. Các cấp, các ngành liên quan đã tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; nhiều văn bản đốc thúc về việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2021 đã được ban hành; các chủ đầu tư, ban quản lý dự án và nhà thầu đẩy mạnh thi công xây dựng công trình kết hợp với các biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động theo quy định về phòng chống dịch COVID-19.

          Khu vực dịch vụ: Là khu vực chịu ảnh hưởng lớn nhất của dịch COVID-19. Hai năm liên tiếp ảnh hưởng của dịch đã làm cho các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ điêu đứng, nhất là đối với các cơ sở kinh doanh lĩnh vực lưu trú, du lịch lữ hành,… trong đó nhiều cơ sở kinh doanh phải tạm ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất hoặc giải thể. Năm 2021, tốc độ tăng giá trị sản xuất dịch vụ không đạt kế hoạch đề ra.

          2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

          Năm 2021, mặc dù có nhiều tác động tiêu cực do dịch COVID-19, dịch tả lợn châu Phi, bệnh viêm da nổi cục trên trâu,,... nhưng sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản vẫn đạt mức tăng trưởng khá so với năm 2020.

          Ước tính giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 (theo giá so sánh năm 2010) đạt 9.549,6 tỷ đồng, tăng 3,41% so với năm trước. Trong đó: giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 5.944,4 tỷ đồng, tăng 3,62%; giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp đạt 844,2 tỷ đồng, tăng 1,4%; giá trị sản xuất ngành thủy sản đạt 2.761,1 tỷ đồng, tăng 3,59% so với năm trước.

          a. Nông nghiệp

          - Trồng trọt

          + Sản xuất cây hàng năm

          Sản xuất cây hàng năm trong điều kiện thời tiết thuận lợi, các địa phương đã triển khai sản xuất đúng khung lịch thời vụ, đảm bảo gieo trồng hết diện tích; nhìn chung, năng suất, sản lượng nhiều loại cây trồng tăng khá so với năm trước.

          Diện tích gieo trồng cây hàng năm:

          Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 85.277,6 ha, tăng 1,3% so với năm trước. Cụ thể: Cây lúa thực hiện 53.670 ha, tăng 0,9%; cây ngô 4.715 ha, tăng 10,8%; cây khoai lang 2.997,7 ha, giảm 2,8%; cây sắn 6.579,6 ha, tăng 5,0%; cây rau các loại 6.055,2 ha, giảm 0,6%; cây lạc 4.151,3 ha, giảm 2,2%; cây vừng 500,1 ha, tăng 9,6%; cây hàng năm khác 4.116,5 ha, tăng 1,4% so với năm trước.

          Năng suất gieo trồng một số cây trồng hàng năm:

          Cây lúa đạt 54,59 tạ/ha, tăng 6,2%; cây ngô đạt 61,15 tạ/ha, tăng 9,3%; cây khoai lang đạt 78,94 tạ/ha, tăng 5,5%; cây sắn đạt 183,08 tạ/ha, tăng 2,9%; cây rau các loại đạt 104,03 tạ/ha, giảm 1,3%; cây lạc đạt 24,38 tạ/ha, tăng 7,4%; cây vừng đạt 7,34 tạ/ha, tăng 12,7% so với năm trước.

          Sản lượng một số cây trồng hàng năm chủ yếu:

          Sản lượng lương thực năm 2021 đạt 322.087,7 tấn, so với năm trước tăng 8,3%. Trong đó: Sản lượng lúa đạt 292.974,2 tấn, tăng 7,2%; sản lượng ngô đạt 28.833,9 tấn, tăng 21,1%; sản lượng kê đạt 279,6 tấn, giảm 7,7%. Sản lượng các loại cây trồng chủ yếu khác: khoai lang đạt 23.662,5 tấn, tăng 2,6%; sắn đạt 120.456,1 tấn, tăng 8,0%; lạc đạt 10.122,1 tấn, tăng 5,0%.

          + Sản xuất cây lâu năm

          Ước tính diện tích cây lâu năm 17.927,5 ha, tăng 0,4% so với năm 2020. Sản lượng một số cây chủ yếu: Cao su 5.867,8 tấn, giảm 0,5%; hồ tiêu 1.060 tấn, tăng 0,4%; chuối 14.834 tấn, tăng 0,6%; dứa 1.180 tấn, tăng 0,8%; ổi 2.112 tấn, tăng 1,7%; cam 1.014 tấn, tăng 1,5%; bưởi 1.350 tấn, tăng 3,6% so với năm trước.

          - Chăn nuôi

          Mặc dù sản xuất chăn nuôi gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh, giá thức ăn tăng trong khi giá đầu ra giảm, nhưng trong thời gian qua, ngành chăn nuôi đã có sự chuyển dịch theo hướng nâng cao chất lượng, chuyển từ nông hộ sang trang trại; công tác thú y được đẩy mạnh và tăng cường, nhất là trong công tác phòng ngừa. Do đó, nhìn chung tổng đàn gia súc, gia cầm và sản lượng thịt hơi xuất chuồng cả năm đều tăng so với năm trước.

          Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2021 đạt 73.010 tấn, so với năm trước tăng 4,2%. Trong đó: Thịt trâu 1.912 tấn, tăng 7,2%; thịt bò 9.294 tấn, tăng 12,4%; thịt lợn 38.021 tấn, tăng 1,9%; thịt gia cầm 23.783 tấn, tăng 4,7% so với năm trước. Riêng thịt gà 17.545 tấn, tăng 5,4% so với năm trước.

          Trong năm 2021, dịch bệnh gia súc trên địa bàn tỉnh diễn ra phức tạp, đặc biệt dịch tả lợn châu Phi và bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp tổ chức, chỉ đạo quyết liệt, khẩn cấp công tác chống dịch, đặc biệt chú trọng công tác tiêm phòng vắc xin nhằm bao vây, khống chế kịp thời dịch bệnh.

          - Dịch tả lợn châu Phi: Từ ngày 01/01/2021 đến ngày 20/12/2021, đã xảy ra ở 278 hộ/90 thôn/43 xã/8 huyện, thị xã, thành phố làm 2.372 con lợn chết, tiêu hủy, với tổng trọng lượng là 141.097 kg. Đến nay, đã có 38 xã công bố hết dịch, 5 xã/3 huyện chưa qua 21 ngày (tăng 6,1 lần số ổ dịch so với cùng kỳ).

          - Bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò: Từ ngày 08/02/2021 đến ngày 07/9/2021, đã xảy ra tại 6.261 hộ/684 thôn/125 xã/8 huyện, thị xã, thành phố, làm 10.070 con trâu, bò mắc bệnh, trong đó có 1.340 con chết. Đến nay, dịch bệnh viêm da nổi cục trên gia súc đã được khống chế với 100% các xã đã công bố hết dịch.

          b. Lâm nghiệp

          Sản xuất lâm nghiệp được duy trì và phát triển khá ổn định. Công tác trồng rừng, chăm sóc rừng được triển khai đúng kế hoạch. Các cấp, các ngành quan tâm công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng. Khai thác gỗ từ rừng trồng và các lâm sản khác được kiểm soát chặt chẽ.

          Ước tính thực hiện một số chỉ tiêu lâm nghiệp năm 2021: Sản lượng gỗ khai thác 570.681 m3, giảm 1,3%; sản lượng củi khai thác 334.500 ste, tăng 1,3%; diện tích rừng trồng mới tập trung 8.678,5 ha, tăng 0,2%; diện tích rừng bị thiệt hại 23,3 ha, giảm 51,9% so với năm trước.

          c. Thủy sản

          Các tháng cuối năm, thời tiết thuận lợi, không có mưa, bão,, lụt kéo dài như năm ngoái, vì vậy kết quả sản xuất quý IV đạt cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên do ảnh hưởng của dịch COVID-19 từ quý III, sản xuất thủy sản gặp nhiều khó khăn từ khâu tiêu thụ cho đến nguồn cung ứng nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào; giá xăng dầu và thức ăn thủy sản tăng mạnh, nhiều tàu khai thác thuỷ sản phải nằm bờ dài ngày,... Theo đó, sản lượng thủy sản mặc dù có tăng, nhưng mức tăng  thấp so với các năm trước, nhất là khai thác biển.

          Sản lượng thủy sản năm 2021 ước tính đạt 89.063,6 tấn, tăng 3,3% so với năm trước. Chia ra: Sản lượng khai thác đạt 76.314,2 tấn, tăng 3,2%; sản lượng nuôi trồng thu hoạch 12.749,4 tấn, tăng 3,5% so với năm trước.

          3. Công nghiệp

          Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục gặp khó khăn, nhiều cơ sở sản xuất phải tạm ngừng hoạt động hoặc cắt giảm số lượng lao động; giá cả nguyên, nhiên vật liệu, chi phí sản xuất tăng đã làm cho doanh nghiệp càng gặp khó khăn hơn. Trước tình hình đó, các cấp, các ngành đã có những giải pháp kịp thời nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người lao động nhằm duy trì hoạt động sản xuất. Trong năm có một số dự án mới đi vào hoạt động như: sản xuất điện mặt trời; điện gió,… đã đóng góp vào mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

          Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2021 tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 20,3%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,5% so với năm trước.

          Năm 2021, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) đạt 13.865 tỷ đồng, tăng 6,49% so với năm trước. Một số sản phẩm sản xuất chủ yếu ngành công nghiệp năm 2021: Xi măng đạt 1,8 triệu tấn, tăng 3,6%; clinke đạt 3,7 triệu tấn, tăng 1,8%; gạch xây dựng bằng đất nung đạt 401 triệu viên, tăng 23,9%; đá xây dựng đạt 3,6 triệu m3, tăng 5,2%; cá đông lạnh đạt 2.355 tấn, tăng 154,3%; ván ép từ gỗ đạt 88.203 m3, tăng 54,9% so với năm trước,… Bên cạnh đó, một số sản phẩm đạt thấp so với năm trước do ảnh hưởng của dịch COVID-19, chi phí nguyên, nhiên vật liệu, chi phí vận tải kho bãi, chi phí sản xuất tăng cao; tiêu thụ sản phẩm khó khăn, như: Cao su tổng hợp và cao su tự nhiên đạt 460 tấn, giảm 5,2%; cao lanh đạt 57.954 tấn, giảm 7,1%; dăm gỗ đạt 315.536 tấn, giảm 7,9%; điện thương phẩm đạt 1.036 triệu Kw/h, giảm 2,4% so với năm trước.

          4. Hoạt động của doanh nghiệp

          Năm 2021, ảnh hưởng của dịch COVID-19 khiến nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn, thách thức lớn: Thiếu hụt nguyên liệu đầu vào, chi phí vận chuyển, giá cả nguyên, nhiên vật liệu tăng cao, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp; nhiều doanh nghiệp phải thực hiện giãn cách hoặc tổ chức phương án sản xuất 3 tại chỗ làm cho chi phí sản xuất tăng cao nên nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc tạm dừng sản xuất.

          Tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2021 (tính đến ngày 01/12/2021): Tổng số doanh nghiệp thành lập mới là 569 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký là 10.538,6 tỷ đồng. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 192 doanh nghiệp. Tổng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là 221 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 31 doanh nghiệp.

          5. Thương mại và dịch vụ

          Năm 2021, dịch COVID-19 tiếp tục diễn ra phức tạp, tuy nhiên tỉnh Quảng Bình đã kiểm soát tốt dịch COVID-19 và thực hiện quyết liệt, đồng bộ biện pháp vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới. Do đó, tổng mức bán lẻ và doanh thu các ngành vận tải, viễn thông, dịch vụ khác đạt tốc độ tăng trưởng khá cao so với năm trước. Một số lĩnh vực bị tác động trực tiếp bởi ảnh hưởng của dịch như hoạt động lưu trú, du lịch lữ hành giảm mạnh so với năm trước.

          - Tổng mức bán lẻ hàng hóa

          Năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước tính đạt 42.257,2 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm trước; nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 10,3% so với năm trước. Trong đó, nhóm có mức tăng cao nhất đó là nhóm xăng, dầu các loại (+29,5%), nguyên nhân do Chính phủ điều tiết giá xăng dầu tăng cao (+30,4%); bên cạnh đó do ảnh hưởng giá xăng dầu tăng cao làm cho các nhóm hàng hóa liên quan tăng theo như: Nhóm lương thực, thực phẩm tăng 13,3%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,6%; nhóm sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 11,9%; nhóm hàng hóa khác tăng 10,9% so với năm trước.

          - Dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành

          Dịch vụ lưu trú: Doanh thu lưu trú năm 2021 ước tính đạt 90,0 tỷ đồng, giảm 46,7% so với năm trước. Số lượt khách lưu trú năm 2021 ước tính đạt 259.676 lượt khách, giảm 51,4%, trong đó số lượt khách quốc tế ngủ qua đêm đạt 6.258 lượt khách, giảm 82,4% so với năm trước.

          Dịch vụ lữ hành: Doanh thu dịch vụ lữ hành năm 2021 ước tính đạt 70,2 tỷ đồng, giảm 45,9% so với năm trước. Số lượt khách du lịch lữ hành năm 2021 ước tính đạt 105.144 lượt khách, giảm 73,0%, trong đó số lượt khách quốc tế đạt 4.101 lượt khách, giảm 88,1% so với năm trước.

          Dịch vụ ăn uống: Doanh thu ăn uống năm 2021 ước tính đạt 3.286,8 tỷ đồng, tăng 7,9% so với năm trước.

          - Vận tải và viễn thông

          + Vận tải: Ảnh hưởng do dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến hoạt động vận tải, nhất là vận tải hành khách. Lưu thông hành khách liên tỉnh bị hạn chế, hoạt động du lịch lữ hành bị sụt giảm làm cho vận tải hành khách bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh, dịch COVID-19 cơ bản kiểm soát tốt, các hoạt động kinh tế dần được đẩy mạnh, đặc biệt là vận tải hàng hóa phục vụ cho hoạt động xây dựng tăng cao.

          Tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải năm 2021 ước tính đạt 4.182 tỷ đồng, tăng 6,8% so với năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 4,9%). Trong đó, vận chuyển hành khách đạt 663,9 tỷ đồng, tương đương năm trước; vận chuyển hàng hóa đạt 3.197,4 tỷ đồng, tăng 10,4% so với năm trước.

          Khối lượng hành khách vận chuyển năm 2021 ước tính đạt 26,5 triệu hành khách, giảm 2,4%; khối lượng hành khách luân chuyển ước tính đạt 1.210,6 triệu hành khách.km, giảm 0,7% so với năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 28 triệu tấn, tăng 7,3%; tổng số hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 1.489,5 triệu tấn.km, tăng 8,5% so với năm trước.

          + Viễn thông: Số thuê bao internet và doanh thu viễn thông đều tăng khá cao so với năm trước. Ước tính năm 2021, tổng số thuê bao internet toàn tỉnh đạt 136.809 thuê bao, tăng 20%; doanh thu hoạt động viễn thông đạt 1.079 tỷ đồng, tăng 19,3% so với năm 2020.

          - Dịch vụ khác

          Doanh thu dịch vụ khác năm 2021 ước tính đạt 1.570,4 tỷ đồng, tăng 5,2% so với năm trước. Trong đó nhóm dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 12,9%. Đây là nhóm có mức tăng cao do năm nay dịch bệnh diễn biến phức tạp nên các hoạt động khám chữa bệnh tăng cao phục vụ nhu cầu của người dân. Bên cạnh còn có nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng cao so với năm trước (+9,5%) nhờ giao dịch bất động sản diễn ra sôi động, giá đất nền tăng cao 30% - 50%, các doanh nghiệp đẩy mạnh bán đất nền phân lô, xây dựng khu nhà ở thương mại,…

          6. Hoạt động ngân hàng, thu - chi ngân sách Nhà nước

          Năm 2021, mặc dù gặp khó khăn do dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn đạt khá cao; thu ngân sách vượt kế hoạch đề ra.

          - Huy động vốn: Ước tính đến 31/12/2021, tổng nguồn vốn huy động đạt 53.000 tỷ đồng, tăng 9,9% so với đầu năm.

          - Dư nợ tín dụng: Ước tính đến 31/12/2021, dư nợ đạt 68.000 tỷ đồng, tăng 13,7% so với đầu năm.

          - Thu ngân sách trên địa bàn năm 2021 ước tính đạt 6.496,6 tỷ đồng, bằng 119,7% dự toán địa phương giao, tăng 9% so với năm trước, gồm:

          + Thu cân đối ngân sách đạt 5.779,6 tỷ đồng, bằng 117,3% dự toán địa phương giao, tăng 0,3% so với năm trước. Trong đó, thu tiền cấp đất tăng 12%, chiếm 55% trong thu cân đối ngân sách.

          + Thu thuế xuất nhập khẩu đạt 717 tỷ đồng, bằng 143,4% dự toán địa phương giao, tăng 267,3% so với năm trước.

          - Chi ngân sách nhà nước địa phương năm 2021 (tính đến 27/12/2021) đạt 12.173 tỷ đồng, đạt 99,3% dự toán địa phương, bằng 97,3% so với cùng kỳ.

          7. Đầu tư và xây dựng

          Trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và tác động đến nền kinh tế trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng, hoạt động đầu tư xây dựng có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Việc tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm; hoàn thành dự án cụm trang trại điện gió B&T,… cùng với hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở khu vực hộ dân cư tăng khá mạnh đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong năm 2021.

          Vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh năm 2021 ước tính thực hiện 23.610 tỷ đồng, tăng 7,8% so với năm trước. Trong đó, vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước thực hiện 3.820,9 tỷ đồng, giảm 4,9%; vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện 212,1 tỷ đồng, giảm 62,1%; vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước thực hiện 96,0 tỷ đồng, giảm 21,2%; vốn vay từ các nguồn khác của khu vực Nhà nước thực hiện 167,8 tỷ đồng, tăng 27,7%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân thực hiện 14.290,2 tỷ đồng, tăng 1,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4.929,1 tỷ đồng, tăng 77,8%; vốn huy động khác thực hiện 93,8 tỷ đồng, tăng 5,0% so với năm trước.

          Hoạt động đầu tư xây dựng trong năm 2021 cũng gặp không ít khó khăn do dịch COVID-19, việc huy động nhân công, vật tư, thiết bị thi công công trình khó khăn, một số dự án, công trình phải tạm ngừng thi công. Sau thời gian tình hình dịch được kiểm soát lại rơi vào thời điểm mùa mưa đã ảnh hưởng đến tiến độ thi công các công trình. Giá cả nhiều loại vật liệu xây dựng liên tục tăng cao, một số dự án gặp vướng mắc về đền bù, giải phóng mặt bằng, địa chất phải tạm dừng thi công để giải quyết, xử lý, điều chỉnh dự án, điều chỉnh thiết kế để phù hợp với thực tế thi công.

          8. Chỉ số giá

          Nhờ thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ và UBND tỉnh về tăng cường công tác quản lý, điều hành giá, thực hiện có hiệu quả các giải pháp bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn thị trường, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về việc kê khai, niêm yết giá, do đó giá cả năm 2021 tăng không đáng kể.

          Bình quân năm 2021, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,60% so với năm trước (trong đó: nhóm hàng hóa tăng 2,06%; nhóm dịch vụ tăng 0,71%). Cụ thể một số nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chủ yếu ảnh hưởng lớn đến chỉ số chung CPI như sau: Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 4,13%, đóng góp tăng 0,56%; nhóm giao thông tăng 7,38%, đóng góp tăng 0,82%; nhóm giáo dục tăng 2,67%, đóng góp tăng 0,21% chỉ số giá.

          Giá vàng và giá đô la Mỹ trong tỉnh biến động theo giá vàng trong nước. Giá vàng bình quân năm 2021 là 5.231 ngàn đồng/chỉ tăng 7,05% so với năm trước. Giá đô la Mỹ bình quân năm 2021 là 22.840 đồng/USD, giảm 1,31% so với năm trước.

          9. Một số lĩnh vực xã hội

          a) Dân số, lao động và việc làm

          Ước tính dân số trung bình năm 2021 toàn tỉnh 910.655 người, tăng 0,96% so với năm 2020. Trong đó, dân số khu vực thành thị 210.065 người, chiếm 23,07%; khu vực nông thôn 700.590 người, chiếm 76,93% dân số.

          Đến cuối năm 2021, toàn tỉnh đã tạo việc làm cho 15.500 lao động (đạt 86,1% kế hoạch năm). Ước tính năm 2021 có 2.000 lao động được xuất cảnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng (đạt 55,5% kế hoạch năm).

          b) Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội

          Công tác an sinh xã hội luôn nhận được sự quan tâm, đầu tư của các cấp, các ngành, huy động được nhiều lực lượng xã hội tham gia và đạt được những kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo từng bước giảm dần. Năm 2021, ước tính tỷ lệ hộ nghèo 3,30%, giảm 0,6% so với năm 2020. Đời sống Nhân dân cơ bản ổn định và đang dần được cải thiện. Đến nay, toàn tỉnh chưa xảy ra thiếu đói.

          c) Giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao

          Năm 2021, sự bùng phát của làn sóng dịch COVID-19 lần thứ tư đã và đang tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó tác động rất lớn đến hoạt động của ngành Giáo dục, Y tế, Văn hóa và Thể thao. Để thích ứng với tình hình thực tế, tỉnh đã kịp thời đưa ra các phương án ứng phó, chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp vừa phòng, chống dịch hiệu quả vừa đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị.

          - Công tác giáo dục: Đến nay, toàn tỉnh có 387 trường phổ thông, gồm 385 trường công lập và 02 trường tư thục. Trong đó, 188 trường tiểu học; 137 trường trung học cơ sở; 30 trường phổ thông cơ sở (cấp 1,2); 26 trường trung học phổ thông; 06 trường trung học (cấp 2,3). Lớp học có 5.778 lớp, trong đó, tiểu học 3.349 lớp; trung học cơ sở 1.636 lớp; trung học phổ thông 793 lớp. Phòng học có 5.513 phòng, trong đó, tiểu học 3.287 phòng; trung học cơ sở 1.436 phòng; trung học phổ thông 790 phòng.

          Tổng số giáo viên năm học 2021 - 2022 là 9.200 người, trong đó, tiểu học 4.519 người; trung học cơ sở 2.927 người; trung học phổ thông 1.754 người. Tổng số học sinh là 180.219 em, trong đó, tiểu học 92.088 em; trung học cơ sở 56.036 em; trung học phổ thông 32.095 em.

          - Y tế: 11 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 249 trường hợp sốt xuất huyết Dengue; 1.957 trường hợp tiêu chảy; 86 trường hợp viêm gan vi rút khác; 402 trường hợp thủy đậu; 22 trường hợp quai bị; 4.618 trường hợp cúm; 26 trường hợp lỵ trực trùng; 04 trường hợp sốt rét; 15 trường hợp lỵ amip; 12 trường hợp tay - chân - miệng; 02 trường hợp viêm gan virut B; 03 trường hợp bệnh do virut Adeno; 04 trường hợp lao phổi; 02 trường hợp sởi. Các trường hợp kể trên đều được phát hiện và điều trị kịp thời nên đến nay chưa có tử vong xảy ra.

          Theo báo cáo của Trung tâm Chỉ huy phòng, chống dịch COVID-19 tỉnh, tính đến thời điểm 6h00 ngày 28/12/2021, toàn tỉnh có 1.077.437 liều vắc xin COVID-19 đã được tiêm, trong đó 493.376 người đã tiêm đủ 2 mũi; tổng số người hiện đang cách ly tập trung là 298 người; tổng số người hiện đang theo dõi, cách ly tại nhà là 6.336 người; tổng số ca dương tính là 3.643 ca (trong đó 3.206 ca đã khỏi bệnh và 430 ca đang nhiễm, 7 ca tử vong).

          Tình hình sốt rét: 11 tháng năm 2021, tổng số lượt người điều trị sốt rét là 671 lượt người, đã điều trị khỏi bệnh là 04 người, trong đó không có bệnh nhân sốt rét ác tính và không có bệnh nhân tử vong do sốt rét; tiến hành xét nghiệm lam và test cho 34.485 lượt người, tỷ lệ ký sinh trùng/lam và test là 0,01%.

          Tình hình nhiễm HIV/AIDS: 11 tháng năm 2021, trên địa bàn tỉnh phát hiện 24 người nhiễm mới HIV, 20 người chuyển sang AIDS, 06 người tử vong do AIDS. Tính đến ngày 30/11/2021, tổng số người nhiễm HIV cộng dồn là 1.510 người; tổng số bệnh nhân AIDS cộng dồn là 542 người; số bệnh nhân AIDS chết cộng dồn là 154 người.

          Tình hình ngộ độc thực phẩm: Tính đến cuối tháng 11 năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm với 13 ca mắc. Các bệnh nhân đã được điều trị kịp thời nên không có tử vong, ngoài ra còn có 226 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ.

          - Hoạt động văn hoá và thể thao: Năm 2021, toàn tỉnh có 87,3% hộ gia đình được công nhận danh hiệu "Gia đình văn hóa"; 85,7% thôn, bản, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa; 79,0% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; tỷ lệ người tham gia tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên ước tính đạt 33,6%; tỷ lệ gia đình thể thao ước tính đạt 27,1%.

          Thể thao thành tích cao Quảng Bình đã giành được 49 huy chương các loại, trong đó 12 huy chương vàng, 16 huy chương bạc và 21 huy chương đồng.

          d) Tai nạn giao thông

          Năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 131 vụ tai nạn giao thông, giảm 13 vụ so với cùng kỳ năm 2020, trong đó đường bộ 131 vụ, giảm 11 vụ so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 02 vụ so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 78 người, giảm 04 người so với cùng kỳ; trong đó đường bộ chết 78 người, giảm 03 người so với cùng kỳ; đường sắt không xảy ra, giảm 01 người so với cùng kỳ; đường thủy không xảy ra, bằng cùng kỳ.

          đ) Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và cháy nổ

          - Thiên tai: Năm 2021, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ thiên tai, làm 06 người chết và 01 người mất tích; nhiều ngôi nhà, diện tích lúa, hoa màu bị hư hỏng; gia súc bị chết, cuốn trôi; ước tính tổng giá trị thiệt hại là 43 tỷ đồng.

          - Cháy nổ: Năm 2021, toàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ cháy với giá trị thiệt hại 4.972,5 triệu đồng và 23,7 ha rừng, trong đó, cháy nhà đơn lẻ 04 vụ với giá trị thiệt hại 709,5 triệu đồng; cháy phương tiện giao thông vận tải 04 vụ với giá trị thiệt hại 3.100 triệu đồng; cháy loại hình khác 04 vụ với giá trị thiệt hại 1.163 triệu đồng,...

          Tóm lại, triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 với nhiều khó khăn, thách thức rất lớn do ảnh hưởng của dịch COVID-19, dịch tả lợn châu Phi, dịch viêm da nổi cục trên trâu, bò, hậu quả của lũ lụt năm 2020,… tác động đến hầu hết các ngành, lĩnh vực và đời sống Nhân dân nên nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội không đạt kế hoạch đề ra. Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt cao hơn mức tăng chung của cả nước, bức tranh kinh tế của tỉnh có những điểm sáng: Thu ngân sách vượt kế hoạch đề ra, lạm phát được kiểm soát, trồng trọt được mùa toàn diện; sản xuất công nghiệp có những tín hiệu tích cực, bộ mặt đô thị khởi sắc, nhiều tệ nạn xã hội được ngăn chặn, đẩy lùi,… Điều này cho thấy tính kịp thời, hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, sự nỗ lực, cố gắng của người dân và cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả nhất mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh./.

[Trở về]